Thời đại mạt pháp, chúng sinh nghiệp chướng nặng nề, phước
báo mỏng manh. Người học đạo thì nhiều, song người được đạo lại rất
ít...
Cùng
với Yoga, Thiền định cũng là một phương cách giúp tinh thần được thư
dãn. Hai phương pháp luyện tập này có những điểm tương đồng với nhau,
nhưng Thiền tập đi sâu vào trạng thái tâm linh, nội tại của con người
hơn là những bài luyện tập về thể lực.
Tứ Diệu Đế là giáo lý căn bản, tối quan trọng trong hệ thống
giáo lý, là tinh hoa căn bản trong lời Phật dạy. Đây là pháp hành căn
bản trong sự tu tập giải thoát. Để hiểu rõ hơn về ý nghĩa lý thâm sâu
bài pháp Tứ Diệu Đế, chúng ta hãy cùng nhau tìm hiểu về ý nghĩa như thế
nào được gọi là tam chuyển pháp luân thập nhị hành?
T rong xã
hội con người, những cái gì đẹp, cao quí, thường được ca ngợi, hay được
chiêm ngưỡng, đó là những cái mà đời hay người đời tặng riêng cho mình.
Nhưng khi nhận những sự tán dương này mà Tâm không dính mắc vào những
lời xưng tụng, tán thán, khen ngợi đó, thì mới chính là người đức hạnh
hay bậc thánh hiền. Do đó, tuỳ theo tấm lòng cung kính của mỗi người tu
Phật mà có những danh hiệu khác nhau để tôn kính Ngài được biết như:
Samôn Cồ Đàm, Đức Thế Tôn, Đấng Từ Phụ, Đấng Như Lai …
Trì
chú có tác dụng không? Trì chú là dùng những âm thanh đặc biệt, những
ngôn từ đặc biệt, đại biểu cho sức mạnh gia hộ của chư Phật, Bồ Tát hay
thần linh để phát huy những công năng nhất định như trị bệnh, xua đuổi
tà ma quỷ quái, cầu phúc v.v… Trì chú dưới những hình thức khác nhau đã
sớm có trong tôn giáo của các bộ tộc nguyên thủy.
Bậc thứ nhất là Nhân thừa, tức lợi ích thiết thực ngay trong
đời này và cả đời sau. Thứ hai là Thiên thừa tức giáo pháp dạy chúng ta
tu để được sanh về cõi trời. Thứ ba là Thanh văn thừa, thứ tư là Duyên
giác thừa, hai giáo pháp này đều dạy chúng ta tu để giải thoát sanh tử.
Thứ năm là Bồ tát thừa, tức giáo pháp dạy chúng ta tu vừa lợi mình vừa
lợi người, cuối cùng đều đi đến giác ngộ giải thoát.
Khi
tâm chúng ta chưa an, phải biết là do ngoại ma, tức là những người đã
chết còn buồn phiền, bực tức đau khổ đã tác động chúng ta, làm cho bất
an. Hai là chúng ta bất an vì trong tâm mình đã có nghiệp gọi là ngũ ấm
ma, phiền não ma, tức nội ma. Trên bước đường tu, điều quan trọng là
phải phát hiện được nội ma trong lòng và ngoại ma bên ngoài. Ma trong
lòng không còn thì ma bên ngoài không thể tác động được.
Mang
nghiệp vãng sinh là quan điểm của người tu pháp môn Tịnh độ, nhưng
không thấy có danh từ này trong các kinh điển về Tịnh độ. Vì vậy, cách
đây vài năm, có một cuộc bút chiến về chủ đề "Tiêu nghiệp vãng sinh và
mang nghiệp vãng sinh", của tu sĩ Du già Mật giáo và người tu Tịnh độ.
Nhưng, theo kinh "Quán vô lượng thọ" và kinh "Vô lượng thọ" thì người
phàm phu, tuy tạo nghiệp ác lớn, nếu niệm danh hiệu Phật A-di-đà, hướng
về Phật A-di-đà phát lời nguyện lớn thì cũng được vãng sinh. Vì vậy mà
giới Tịnh độ ở Trung Quốc đề xướng thuyết "Mang nghiệp vãng sinh".
Phật
giáo không tin thuyết định mệnh, nhưng chấp nhận thuyết nhân quả. Nhân
quả có thể thay đổi. Nhân quá khứ cộng với nhân hiện tại, có thể thay
đổi quả báo. Nhưng sách Phật nói : "Định nghiệp không thể chuyển, trọng
nghiệp không thể cứu" nghĩa là làm sao ? Khi đức Phật nói định nghiệp
không thể chuyển là nói những nghiệp ác cực nặng, gọi là 5 tội (ngũ
nghịch) : giết cha, giết mẹ, giết A la hán, phá hòa hợp Tăng, làm Phật
chảy máu.
Lục căn, lục trần, lục thức là bộ phận quan trọng của thuyết Thập nhị
nhân duyên Phật giáo nhằm giải thích thực tướng của thế giới. Căn bản
nhất là vô minh, đó là nhân duyên đầu tiên của chuổi 12 nhân duyên. Vô
thủy vô minh và Nhất niệm vô minh là hai chìa khóa mở ra vũ trụ vạn vật,
thế giới, con người…
Các tin đã đăng: